Hồi ức về Thầy Cố Hiệu Trưởng Trần Vinh Anh
Thầy được bổ nhiệm làm Hiệu Trưởng trường THPT Phan Châu Trinh Đà Nẵng từ đầu năm học 1966 và Thầy đă vĩnh viễn ra đi vào mùa hè năm 1967 khi Thầy làm Chánh Chủ Khảo Hội Đồng thi Tú Tài 1 tại Thị Xă Quy Nhơn, lưỡi dao oan nghiệt của một thí sinh côn đồ mà Thầy đă cương quyết đ́nh chỉ thi do gian lận thi cử đă kết thúc cuộc sống của một người Thầy liêm chính, đức độ, tài năng và quả cảm. Thầy mất đi khi tuổi đời c̣n rất trẻ, c̣n nhiều hoài bảo cống hiến cho đời, cho sự nghiệp giáo dục mà Thầy đă chọn.
Thời gian Thầy làm Hiệu Trưởng trường THPT Phan Châu Trinh thật ngắn ngủi, đa số CHS_PCT_NK_65-72 có rất ít kí ức về Thầy. Năm học 1966-1967 anh em ḿnh mới học lớp Đệ Lục (lớp 7 bây giờ), c̣n quá non nớt, lắm bỡ ngỡ, rụt rè trong các hoạt động của nhà trường nên ít khi được tiếp xúc, đối diện với Thầy Hiệu Trưởng. Với tôi trong suốt 40 năm kể từ ngày xa trường PCT tôi vẫn thường nhớ đến Thầy, nhớ đến tấm gương quả cảm của Thầy nhưng thú thật tôi không thể h́nh dung được khuôn mặt của người Thầy kính yêu, cho đến tháng 9-2012 khi về Đà Nẵng dự lễ kỷ niệm 60 năm thành lập trường và 40 năm ngày xa trường, tôi vui mừng và cảm động xiết bao khi nh́n được h́nh ảnh của Thầy trong pḥng truyền thống của trường, tôi cố ghi lại h́nh ảnh Thầy dù không được rỏ nét lắm, qua bức ảnh của Thầy có thể nhận ra những giá trị tinh thần cao quư với khuôn mặt nghiêm nghị, cái nh́n thẳng thắn, cương trực và vầng trán đầy trí tuệ của Thầy.
Ngày đầu tiên tôi được nh́n thấy Thầy khi tôi là học sinh trực văn pḥng nhà trường, nhiệm vụ của học sinh trực văn pḥng là đưa các thông báo của pḥng giáo vụ đến các lớp, bấm chuông báo kết thúc mỗi tiết học, làm các công việc tạp vụ khác nếu có của văn pḥng nhà trường. Các lớp tuần tự thay nhau cắt học sinh trực văn pḥng khoảng 1 tháng 1 buổi, vào buổi lớp được nghỉ học, thường th́ lớp trưởng hay lớp phó nhận phiên trực này, lí do lớp trưởng không cắt học sinh khác trực v́ sợ học sinh này không đi trực, lớp sẽ bị khiển trách. Tôi lúc đó làm lớp trưởng lớp đệ lục 4.
Trong phiên trực hôm đó, khi tôi đang ngồi trên chiếc ghế băng trước cửa pḥng giáo vụ, tôi nh́n thấy Thầy đi từ pḥng Hội Đồng dọc theo hành lang, qua các lớp rồi vào pḥng Hiệu Trưởng. Thầy đi rất nhanh, dáng người thấp, khuôn mặt nghiêm nghị, da Thầy ngâm đen, h́nh như Thầy từ xa chuyển đến chứ không phải công tác tại Đà Nẵng từ trước. Thầy đi làm bằng chiếc xe Honda 68 cũ, b́nh xăng màu trắng, cái ghi-đông nằm ngang hơi kềnh càng so với dáng dấp của Thầy. Cho đến ngày Thầy mất, không có nhiều thông tin về Thầy, về gia đ́nh vợ con của Thầy. Qua câu chuyện giữa các Thầy Cô trong pḥng giáo vụ, tôi được biết Thầy sống trong một ngôi nhà nhỏ gần băi biển Thanh B́nh, khu vực này lúc bấy giờ có nhiều nhà tạm của những người lao động nghèo hay di dân từ các nơi khác đến. Có Thầy Cô đến thăm nhà Thầy Hiệu Trưởng thấy Thầy đang cuốc đất trồng rau. Mọi người đều rất nể phục cách sống b́nh dị của Thầy.
Trên cương vị Hiệu Trưởng, trong năm học 1966-1967, Thầy đă tổ chức 2 kỳ thi kiểm tra đệ nhất lục cá nguyệt và đệ nhị lục cá nguyệt (thi học kỳ 1 và thi học kỳ 2) rất nghiêm túc. Tôi nhớ rất rỏ lớp tôi được chia thành 2 pḥng thi, học sinh ngồi theo số báo danh cách xa nhau nên rất khó nh́n bài của nhau, đề thi được phát đến giáo viên coi thi khi giờ thi bắt đầu và thi chung một đề thi cho cùng một khối lớp. Cách tổ chức thi học kỳ như vậy chưa từng được áp dụng trước đó và cả những năm học sau này cho đến năm tôi rời trường 1972. Có thể thấy ngay tính hiệu quả của cách thi học kỳ như vậy, học sinh phải lo học và trung thực làm bài, giáo viên phải dạy đủ chương tŕnh học.
Với phong cách làm việc nghiêm túc như thế, Mùa hè 1967 khi Thầy làm Chánh Chủ Khảo Hội Đồng thi Tú Tài 1 tại Thị Xă Quy Nhơn, Thầy đă rất nghiêm khắc xử phạt các hành vi gian lận thi cử và Thầy đă hy sinh cho lư tưởng của ḿnh. Đám tang của Thầy được tổ chức khá đơn giản tại Đà Nẵng, v́ đang thời gian học sinh nghỉ hè nên chỉ một số học sinh lớp lớn được thông báo tham dự tang lễ của Thầy. Tôi không được tham dự tang lễ của Thầy nhưng may mắn được nh́n thấy đoàn đưa tang đi trên đường Phan Châu Trinh gần nhà tôi ở. Các học sinh nam nữ đều mặc đồng phục màu trắng, tay cầm các ṿng hoa phúng điếu, có 2 băng khẩu hiệu nền đen chữ trắng thương tiếc Thầy và lên án tên côn đồ đă giết chết Thầy.
Thế là Thầy đă vĩnh viễn ra đi và theo thói đời nghiệt ngă, Thầy cũng nhanh chóng đi vào sự lăng quên, những năm tháng sau này, không có mấy dịp để học sinh tưởng nhớ đến Thầy, có ai trong chúng ta được thắp một nén nhang trong ngày giỗ của Thầy! Không c̣n nghe ai đó kể những kỷ niệm về Thầy!.
Thật may mắn, sau ngày Thầy mất, tôi đă được nghe một câu chuyện thật khí tiết về Thầy, câu chuyện không được kể lại tại Đà Nẵng mà được kể tại thành phố Huế, quê hương của tôi.
Ở Huế, nhà của ba mẹ tôi trong khuôn viên Thành Nội, gần Cửa Hiển Nhơn (cửa phía Đông đi vào Đại Nội). Ở sát cạnh nhà tôi là nhà của bác D. Bác D. là một Công chức cao cấp thời bấy giờ, làm đến chức Trưởng Ty (Giám đốc Sở). Xin nói nhỏ là bạn Lê Quang Thọ 12A2 quen thân với gia đ́nh Bác D. Vào dịp hè 1967, tôi ra thăm gia đ́nh, biết tôi là học sinh trường PCT, Bác D. kể cho tôi câu chuyện về Thầy Hiệu Trưởng Trần Vinh Anh và vô cùng khâm phục khí tiết của Thầy:
Bác D. có người anh bà con sống ở Đà Nẵng nhưng làm việc tại Sài G̣n. Ông N. là một Nghị Sĩ Thượng Nghị Viện, có thể nói là người rất có quyền thế thời bấy giờ. Ông N. muốn đưa con trai vào học tại trường PCT nhưng con ông không đủ điều kiện để xét tuyển. Sau nhiều lần trực tiếp gặp Thầy Hiệu Trưởng Trần Vinh Anh đều bị Thầy thẳng thắn từ chối, ông N. rất bực tức đă nói thẳng với Thầy:
-“Anh chẳng qua cũng chỉ là một hạt đậu đỏ trong một thúng đậu đen mà thôi”.
Thầy đă khẳng khái trả lời:
-“Thà có một hạt đậu đỏ c̣n hơn không có hạt nào”.
Câu trả lời ngắn gọn của Thầy đă theo tôi suốt cho đến tận bây giờ, qua bao thăng trầm của cuộc sống, mỗi khi phải đối diện với những khó khăn, gian khổ, những cám dỗ của đời thường và có khi là áp lực của quyền uy, tôi thường nghĩ đến cuộc sống và cái chết của Thầy Hiệu Trưởng Trần Vinh Anh. Có thể để làm một hạt đậu đỏ nhỏ bé giữa cuộc đời cũng đă khó khăn vô cùng, thậm chí hạt đậu đỏ đó đă không thể tồn tại, đă phải mất đi, tan nát, vỡ vụn. Nhưng Thầy ơi!, dẫu Thầy đă mất đi, Thầy đă gieo mầm nhiều hạt đậu đỏ khác cho cuộc đời.
Hôm nay, vào những ngày cuối hè 2013, tôi nhớ về mùa hè đau thương năm 1967, nhớ đến sự hy sinh quả cảm của Thầy. Tôi viết bài hồi ức về Thầy, dẫu rất muộn màng, xin được dâng lên Thầy nén hương ḷng với lời khấn nguyện: “Thầy ơi!, hôm nay nhớ về Thầy, chúng con, những đứa học tṛ nhỏ của Thầy ngày xưa nay đă ngoài tuổi 60, chúng con đă đi gần hết đoạn đường của đời ḿnh, cho đến điểm dừng chân cuối cùng, chúng con nguyện vẫn măi là hạt đậu đỏ mà Thầy đă gieo”.
Huế, hè 2013.
Nguyễn Văn Cư.
31/8/2013 - Bài dự thi số 21