TỔNG QUAN VỀ TẬP TỤC VÀ

LỄ  HỘI DÂN GIAN ĐẤT QUẢNG 
 

      Những yếu tố lịch sử và  địa-chính trị liên quan đến sự h́nh thành tập tục và lễ hội đất Quảng

       Năm 1306, đời nhà Trần, công chúa Huyền Trân nước non ngh́n dặm nam chinh, đẩy lùi biên giới Việt-Chiêm tới tận bờ bắc Thu Bồn. Năm 1307, vua Trần chính thức nhận bàn giao châu Ô, châu Rí và đổi thành châu Thuận, châu Hoá. Thế nhưng sau đó hàng thế kỷ, lănh thổ Amaravati vẫn chưa thuộc quyền lực nhà nước Đại Việt về phương diện hành chính công quyền cũng như trên lĩnh vực bang giao quốc tế. Năm 1403, qua thương thuyết với triều đ́nh Chăm-pa, nhà Hồ mới tiếp quản thêm vùng đất Chiêm động và Cổ Luỹ động phía nam sông Thu Bồn, chia thành bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt lộ Thăng Hoa thống lĩnh cả bốn châu này, rồi cử Nguyễn Cảnh Chân vào làm An phủ sứ trông coi việc b́nh định và khai khẩn. Trong sách Việt sử tiêu án viết giữa thế kỷ XVIII, Ngọ Phong Ngô Thời Sĩ có đoạn bàn về bối cảnh chính trị của lộ Thăng Hoa hồi ấy: “(Hồ Quư Ly) lấy các người không có ruộng mà có tiền của dời vào ở Thăng Hoa, chọn đất mà cho ở, (buộc) thích hai chữ tên châu ḿnh ở vào hai cánh tay làm dấu ghi. Lúc bấy giờ nước Chiêm Thành dâng đất, nhưng đất trống không có dân, nên phải di dân vào ở đó1. Sở dĩ Hồ Quư Ly lệnh cho các lưu dân này xăm chữ vào người - điều mà trước đây chỉ áp dụng đối với phạm nhân - là để cho họ không c̣n có thể dễ dàng quay lại phía bắc khi gặp khó khăn như vẫn thường xảy ra trong quá khứ. Có thể nói măi đến đầu thế kỷ XV, đời nhà Hồ, người Việt mới bắt đầu có ư thức trấn giữ và mở rộng - mở rộng để trấn giữ, trấn giữ để mở rộng - miền biên giới xa xôi này. Năm 1405, Hồ Quư Ly ban cho Nguyễn Ngạn Quang vừa được triều đ́nh phái vào lộ Thăng Hoa làm Tuyên phủ sứ một bài thơ luật mở đầu bằng câu “Biên quận thừa tuyên tư tráng chí”. Nuôi chí mạnh để trấn trị biên cương rơ ràng là đ̣i hỏi chung của lịch sử đối với người Quảng trong giai đoạn hơn bốn trăm năm đầu khai sơn phá thạch. Suốt hơn bốn thế kỷ, bao thế hệ tiên dân xứ Quảng từng đem hết sức ḿnh bám trụ giữ đất, và dẫu tự giác hay không, họ cũng xác định phải gắn bó lâu dài với vùng đất mới - không chỉ gắn bó khi vật lộn với gian nan để sống mà gắn bó cả khi nhắm mắt xuôi tay giă biệt cuộc đời. Ư thức gắn bó ấy dường như phảng phất trong câu ca dân gian: “Ngó lên Ḥn Kẽm Đá Dừng - Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi - Thương cha nhớ mẹ thời về - Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thời đừng”. Đương nhiên trụ bám ở nơi là đất ky-mi giành đi giật lại, các thế hệ tiên dân xứ Quảng không thể không bị ám ảnh về biên thuỳ, về phên giậu đất nước. Với họ, đây là giang sơn Đại Việt vừa thành quê hương mới, đồng thời là xứ Amaravati từng thuộc sở hữu một lân bang. Đó là chưa kể “vào buổi đầu, khi mới nhập tịch Việt Nam, Đà Nẵng và vùng bắc Quảng Nam ngày nay tuy đă được xem là đất Việt, nhưng lại bị đèo Hải Vân hiểm trở ngăn cách với phần đất liên lạc của chính quốc khiến trở thành lẻ loi, khó bảo vệ và khai phá. Ảnh hưởng của Chiêm Thành hăy c̣n mạnh lắm (...) ảnh hưởng này mạnh mẽ cho tới nỗi trong cuộc b́nh Chiêm vĩ đại năm 1471, quân của Lê Thánh Tông đă chạm địch ngay khi vượt qua đèo Hải Vân, đến cửa Câu Đê thuộc vịnh Đà Nẵng. Phải từ sau cuộc viễn chinh này, Quảng Nam mới thật sự ở trong tay khai phá của người Việt2. Cuộc b́nh Chiêm năm 1471 của Lê Thánh Tông vừa tiếp tục khẳng định ư thức mở rộng - trấn giữ manh nha từ thời Hồ Quư Ly, vừa thể hiện khả năng trấn giữ - mở rộng lâu dài.  
 

      Tên gọi Quảng Nam với hàm ư mở rộng biên cương tổ quốc về phương Nam xuất hiện sau khi Lê Thánh Tông b́nh Chiêm thắng lợi: đạo thừa tuyên Quảng Nam trở thành đạo thứ mười ba của Đại Việt. Từ lâu phương Nam vẫn là một vết hằn rất sâu trong tư duy người Việt. Chẳng thế mà người Việt một mặt rất dị ứng với những tên gọi An Nam, Nam Man, Nam hải, Nam quan, Nam Sa... mặt khác lại tự hào khẳng định chúng, chẳng hạn như Lư Nam đế, Nam Việt vương, Nam ông mộng lục, “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, “Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”, nước Việt Nam rồi nước Đại Nam, đạo thừa tuyên Quảng Nam... và luôn có ư thức mở đường nam tiến... Tuy nhiên, nam tiến với tư cách là sự lựa chọn chính trị chỉ thực sự được khẳng định khi người Việt đứng chân vững vàng trên đất Quảng. Bản thân tên gọi Quảng Nam từng làm cho người Quảng xưa, trước hết là các tướng lĩnh như Phạm Nhữ Tăng, Lê Tấn Trung... cùng khoảng năm ngàn binh lính trong đạo quân b́nh Chiêm của Lê Thánh Tông lưu lại xứ Quảng lập nghiệp sau chiến tranh, cũng như những lưu dân theo chân Nguy